1. khái
niệm hội nhập văn hóa
Cho phép tôi, trước hết dừng ở khái
niệm và từ ngữ “hội nhập văn hóa ”.người phương tây, Anh và Pháp đều
dùng từ tương đương của họ là acculturation, theo nghĩa một dân tộc
này, thường là lạc hậu hơn, tiếp thu văn hóa của một dân tộc
khác,thương la tiên tiến hơn.trong khai niệm hội nhập văn hóa,có ý tứ:
mội văn hóa ngoại lai(hay là những yếu tốc của nền văn hóa đó)du
nhập hay xâm nhập vào nền văn hóa bản địa đến mức như là nước với
sữa.
Nước hòa với sữa,đến nỗi không thể
phân biệt được đâu là nước đâu là sữa,đó là một ảnh dụ phật
giáo,được dùng để nói Tăng chúng sống hòa hợp với nhau,đoàn kết
với nhau,như các bộ phận gắn liền với nhau trong một cơ thể thống
nhất.
Những yếu tố của nền văn hóa ngoại
nhập cũng phải được như vậy, nghĩa là chúng phải được nền văn hóa
bản địa hấp thụ đến mức chúng trở thành những bộ phận cấu thành
thật sự của nên văn hóa bản địa, không gì khác da thịt xương máu của
cơ thể văn hóa bản địa.có hai điều kiện cho một sự hấp thụ hoàn
hảo như vây: một là phải có thời gian hai là: những yếu tố văn hóa
ngoại nhập đó, qua thử thách của thời gian đã chứng tỏ rõ ràng là
không có hại,mà rất có lợi cho sự củng cố và phát triển mọi mặt
của cộng đồng dân tộc tiếp thu những yếu tố văn hóa đó.
Tôi nghĩ rằng, Phật giáo từ Ấn Độ
hay từ Trung Hoa du nhập vào việt nam đã có đầy đủ điều kiện để
thành tựu cho một sự hội nhập thật sự vào nền văn hóa việt nam,vào
cuộc sống của dân tộc việt nam,theo đúng nội dung của khái niệm hội nhập như tôi đã trình bầy như trên.
Về điều kiện thời gian,thì như mọi
người đều biết,Phật Giáo Viêt Nam có một bề dày lịch sử hơn 18 thế
kỷ, mội thời gian dủ dài để dân tọc việt nam thử thách, chọn lọc
trong đạo phật những gì phù hợp nhất cho sự củng cố và phát triển
của dân tộc Việt Nam.Trong hơn 18 thế lỷ đó, có hai thời triều đại
nhà Lý (1010-1225) và triều đại nhà Trần (1225-1400), đạo Phật được
xem là quốc giáo, hệ tư tưởng chủ đạo của hai thời kỳ đó là Phật
Giáo, không phải là Nho Giáo. Đó cũng là hai thời lỳ văn trị và võ
công huy hoàng nhất,oanh liệt nhất của lịch sử phong kiến nước ta. Dưới
đời Lý quân dân ta 2 lần đánh tống thắng lợi; dưới đòi Trần, họa xâm
lăng từ phương bắc còn nguy hiểm hơn, nhưng quân nguyên Mông ba lần tiến
công nước ta, cả ba lần đều thất bại thảm hại Thực tế lịch sử đời
Lý và đời Trần buộc chúng ta phải xét lại, những nhận định thiếu
căn cứ Phật Giáo là chán đời, có tác dụng ru ngủ, mê hoặc, ngu dân, tiêu
cực, khuyến khích sự chây lười v.v...
Đó là vấn đề rất quan trọng,tôi xin
dành cho phần sau, phần cuối bài này sẽ bàn kỹ và tường tận hơn.
II. Hội
nhập văn hóa thể hiện qua từ ngữ
Trong
kho tàng ngôn ngữ Việt Nam,có nhiều từ ngữ mọi người đều dùng kể
cả ngững người ít học,nhưng không phải số đông biết đc đó là những từ ngữ nguồn gốc
phật giáo .
Thí dụ:Tội Nghiệp,là từ đầu lưỡi chúng ta,mỗi khi thấy một
người gặp tai nạn bất ngờ.Theo đạo Phật, tội nghiệp là tội của
nghiệp, do ngiệp tạo ra từ trước, dẫn tới tai nạn hay sự cố hiện nay.
Theo thuyết ngiệp của đạo Phật thì không có một hiên tượng hay sự cố,tai
nạn nào xảy ra là ngẫu nhiên hay tình cờ,mà chỉ là kết quả tập
thành của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước.Những nguyên nhân đó(sách
Phật gọi là nhân duyên) khi chín mùi, thì đem lại kết quả.Mọi người
đều nói tội nghiệp,nhưng không phải nhiều người biết được đó là một
từ ngữ nói lên một chủ thuyết rất căn bản của đạo phật: thuyết nhân
qua báo ứng. Thuyết đó cũng đi sâu vào nhận thức dân gian với những câu châm ngôn như: ở hiền gặp
lành, gieo gió gặt bão v.vvv...
Hay là câu của nhà nho:
‘‘Tích
thiện chi gia,tất hữu dư khương,
Tích ác chi gia,tất hữu dư ương”
Nghĩa là câu thơ dân dã:
‘‘Người làm điều hạnh,sẽ có thừa
điều lành
Nhà làm điều ác,sẽ có dư điều
dữ.”
Hay
là câu thơ dân dã:
‘‘Người trồng cây đức để đời mai
sau.’’
Hằng
hà sa số,vốn là từ Phật thường dùng để nói lên số nhiều như
cát sông hằng bên Ấn Độ.Thế mà nhiều người Việt Nam,dù có biết chữ
Hán hay không,biết đạo Phật hay không vẫn nói‘‘hằng hà sa số”để chỉ
một số rất nhiều,mà cũng không cần dịch nghĩa nữa là số cát sông
hằng.Nhất là các bà các cô ở nông thôn tuy nói‘‘hằng hà sa số’’mà
không biết sông hằng ở đâu ?
Lục tặc, là câu đầu lưỡi của các
bà mẹ Việt Nam mắng đứa con nhỏ hqay quậy‘‘mày lục tạc lắm’’.Nhưng
từ lục tặc là từ ngữ Phật Giáo chỉ sáu thằng giặc là:mầu sắc,âm
thanh,hương,vị,xúc,pháp từ bên ngoài xâm nhập vào chúng ta để quấy
nhiễu chúng ta. Người tu hành phải luôn luôn tỉnh táo,không để cho sáu
thằng giặc ấy quấy nhiễu.Một từ ngữ có ý sâu xa như vậy,thế mà khi
vào dân gian Việt Nam,thì lại biến thành lời mắng đầu lưỡi của các
bà mẹ Việt Nam.
Các bạn đến một số chùa chắc đều
chú ý đến tượng Phật Di Lặc,một ông Phật béo tròn, bụng phệ, ngồi
ngả lưng ra đằng sau, cười hớn hở như một người thật sung sướng. Tuy
rằng, trên một cánh tay của ông, bò lổm ngổm sáu đúa bé biểu trưng
cho sáu thằng giặc(lục lặc)dang quậy.
Thiền sư Việt Nam Toàn Nhật đời tây
sơn trong cuốn‘‘Tam Giáo Nguyên Lưu Ký” có câu:
‘‘Vả
như sáu giặc trong mình
Chẳng nên để nó tung hoành khuấy ta”
Từ sám
hối, một từ ngữ Phật Giáo, gồm có hai thành phần là sám (từ
sanskrit là ksanayati) là hối lỗi, và từ hối là chữ hán với nghĩa
hối hận. Người Việt Nam cũng hay dùng từ hối hận,hối lỗi,thế nhưng
khi cần nói văn chương hay là nói nghiêm túc,thì lại dùng từ ngữ
Phật Giáo là sám hối.thí dụ đầu đề một cuốn phim nga nổi tiếng
trong thời kỳ cải tổ được trí thức Bắc Hà dịch là sám hối.
Từ danh
lam, gồm hai thành phần: danh là danh tiếng, là một từ Hán. Còn
lam, vốn là từ sanskrit Ashram,chỉ nơi yên tĩnh, vắng lặng, chùa
chiền, tu viện Phật giáo. Ở thành phố Hồ Chí Minh, quận gò vấp có
chùa Già Lam dịch âm đầy đủ hơn từ sanskrit Ashram của Ấn Độ.
Từ chùa
xuất phát từ đâu ? Rõ ràng là một từ Phật Giáo rồi, nhưng gốc
từ đâu,là một vấn đề đang tranh cãi.trong cuốn‘‘Từ Điển Phật Học
Việt Nam’’(nhà xuất bản khoa học xã hội,trang 152) tôi có đưa ra giả
thuyết là gốc từ chùa là ở từ sanskrit stupa, vốn có nghĩa là bảo
tháp thờ Phật, mà người Trung Quốc âm gọn là phù đồ hay đố ba,đọc
theo âm Trung Quốc là phù tô, hay là thu ba. người Việt Nam vốn thích gọn,
bèn phát âm là chùa. Giả thuyết chùa có từ gốc là stupa là của
thầy Thiện Châu, hiện nay là Viện Trưởng Thiền Viện Trúc Lâm tại
Paris.
Từ phù đồ quen thuộc với người Việt
Nam trong hai câu, mang giá trị đạo đức lớn:
“Dù xây chín đợt phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một
người”.
Và chân giá trị hạnh phúc này của
Phật Giáo được biểu trưng trong cử
chỉ cao đẹp của Tiểu Kính Tâm nuôi con của Thị Mầu, như con đẻ của
mình.Tuy rằng mọi người đều biết Tiểu Kính Tâm bị oan:
‘‘Khi
làm gái chồng ngờ thất tiết
Khi làm trai gái đổ oan tình”
Tôi mún nói từ mít trong cây mít. Các
Tăng sĩ Ấn Độ, vào đâu kỷ nguyên, khi Đạo Phật đại thừa đã hưng
khởi, thường hay đi truyền giáo nơi xa,đến đâu họ thường đem hạt giống
cây trồng theo,khi họ đến bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa họ có đem theo
hạt giống loại cây mà không hiểu sao họ gọi là cây paramita. Paramita, Hán
dịch âm ba la mật chỉ cho đức hạnh Bồ Tát,mà Bồ Tát, như chúng ta
biết, là nhân vân tiêu biểu của Phật Giáo đại thừa,tức Phật giáo
Bắc truyền.Một hình thức Phật Giáo rât năng động, sáng tạo đầy
nhiệt tình truyền giáo, hưng khởi vào những thế kỷ đầu công nguyên. Paramita
có nghĩa là đức hạnh hoàn thiện. Hán dịch âm đầy đủ là Ba la mật
đa. Có thể là các Tăng sĩ Ấn Độ thời ấy gọi cây đó là Paramita để
tự nhắc nhủ mình về hạnh Bồ Tát chăng, về hạnh nguyện của các vị
Bồ Tát không ngại đường xa gian khổ đi khắp nơi, cùng trời cuối đất
để truyền báo giáo lý của Phật Đà chăng ? Từ đó về sau, người dân
miền nam Trung Quốc cũng theo các Tăng sĩ truyền giáo Ấn Độ gọi đó
là cây Ba La Mật (họ bỏ âm đa, theo thói quen). Còn người Việt ta thì
bỏ cả những âm đầu và cuối, chỉ gọi là cây mít (Paramita: giản âm
hóa thành cây mít). Cây mít thường trồng nhiều xung quanh chùa, gõ
mít được xem là gỗ thiêng, chỉ dùng làm mõ, làm bàn thờ v.v...
Nhưng tôi xin phếp hỏi các nhà ngôn
ngữ học có mặt ở đây, vì sao người Việt ta lại có từ Mít đặc, để
chỉ người dốt, hỏi gì cũng không biết mít đặc,phải chăng đây là một
trường hợp biến nghĩa, thường gặp trong ngôn ngữ.Một từ ngữ bác
học,sau khi xâm nhập vào nhân gian,thì hay bị biến nghĩa.cũng như từ
thiên binh, chỉ binh đội nhà trời của nước Trung Quốc ngày xưa.Vua
Trung Quốc họi là Thiên Tử,triều đinh của vua Trung Quốc gọi là Thiên
Triều, còn binh đội của vua Trung Quốc gọi là thiên binh, là quân đội
nhà trời, đáng lẽ người dân Việt Nam phải kính nể, khiếp sợ. Ấy
thế mà người dân Viêt Nam lại nói: chuyện thiên binh như một chuyên khôi
hài,láo khoát,không có thật, không đáng sợ.có thể đây là trường hợp
cũng giống như từ mít đặc nói trên chăng ? Paramita là hoàn thiên, siêu
việt lại dám dùng trong hợp từ mít đặc,để chỉ sự dốt nát không
biết gì hết!
III.Hội
nhập qua hình ảnh Ông Bụt
Ông Bụt hiền, ông Bụt lành....đó là
hình tượng đức Phật Thích Ca trong dân gian Việt Nam, là một kết quả
rất đặc sắc của Phật Giáo hội nhập vào nền văn hóa dân gian Việt
Nam, Người Việt nam sợ thần, sợ thánh,sợ ma quỷ...có thể sợ cả ông
ác, hay là Diêm Vương mặt đen xì xì, nhưng nhất định không sợ ông bụt,
bởi vì ông Bụt tuy có quyền năng vô hạn, như có thể thấy trong chuyện
Tâm Cám và mỗi lần nghe ‘‘khổ quá,Tấm nức nở khóc” Bụt lại hiện
lên. Đúng như vậy, người Viêt Nam hình dung một ông Bụt, không những
đầy quyền năng, vì Phật Bà Quan Âm có đến nghìn mắt,nghìn tay, nhưng
rõ nét nhất là một ông bụt hiền lành, thương người, đặc biệt là
người côi cút, cô đơn, bị ức hiếp, bao giờ cũng trung trinh như cô Tấm
trong chuyện ‘‘Tấm Cám”, người em út trong chuyện ‘‘Cây Khế”, thằng
giun trong chuyện ‘‘Hét và giun”, người xấu xí trong chuyên ‘‘ sọ dừa”....
Bụt trong dân gian Việt Nam hiền lành,
nhân hậu tới mức không biết giận là gì,cho nên, thậm chí người ta
không gọi Bụt là đức Bụt hay ông Bụt mà chỉ gọi Bụt củn ngủn,nhưng
thân thương biết bao:
“Gần
chùa gọi Bụt bằng anh,
Trông thấy Bụt lành,cõng Bụt đi chơi”
Thậm
chí có câu còn tai ngược:
Gần
chùa gọi Bụt bằng anh,
Trông thấy Bụt lành,hạ
xuống đất chơi”.
Tất nhiên, có tín đồ nhà Phật khó chụi
với những hình ảnh đức Phật như vậy, thê nhưng nhìn từ góc độ
khác,lại có thể đánh giá những hình ảnh Bụt dó là đánh dấu mức
độ hội nhập sâu sắc của đạo Phật vào văn hóa dân gian và bác học
của Việt Nam. Chúng ta có gì phải thắc mắc, khi đức Phật, đạo Phật
để lại trong ký ức tập thể (kiểu như một archetype) trong tiềm thức
tập thể của dân tộc Việt Nam, trong lòng mỗi người dân Việt Nam, những
biểu trưng đậm nét nhất,nhất quán nhất của long thương vô hạn,của sự
công minh và công bằng tuyệt đối, thái độ không khoan nhượng với cái
ác, cái giả dối,cái xảo trá quỷ quyệt...Đức Phật là như vậy, đạo
Phật là như vậy. Chính những biểu trưng nói trên mới là quan
trọng,chư còn những chuyên khen chê,thị phi với đạo Phật và đức Phật
là chuyện miệng lưỡi thế gian, làm sao mà tránh được. Các hình ảnh
Quan Âm tống tử (cho con), Quan Âm Nam Hải(cứu người gặp nạn trên biển
cả), Quan Âm Diệu Thiên ở chùa Hương Tích(cúu độ cha mẹ),hay là các
hình ảnh Phật Pháp Vân,Pháp vũ,Pháp Lôi,Pháp Điện(mây, mưa, sấm, sét)
ở chùa Dâu và nhiều chùa khác vùng Hà Bắc và nhiều đồng bằng sông
hồng.... đều biểu trưng cho một đạo Phật gần gữi với người nông dân
ở xứ nông nghiệp làm lúa nước, cần có mưa thuận gió hòa.
Vì chùa Phật thường tọa lạc ở
những nơi phong cảnh đẹp, cho nên phong cảnh đẹp cũng gọi là phong
cảnh Bụt.Bụt không chỉ tượng trưng cho long hiền từ,thương người mà
cũng tương trưng cho sự đẹp đẽ nữa,đẹp cả ở nội tâm và đẹp ở ngoại
cảnh.
Đúng như hai câu thơ của thiền sư Huyền
Quang đời Trần mô tả cảnh chùa Vân Yên trên núi Yên Tử :
‘‘Đất
tựa vàng lên
Cảnh bằng ngọc đúc”
(Vịnh chùa Vân Yên)
Hình ảnh
đức Phật trong văn chương bác học Việt nam
Nếu trong văn học dân giã,chúng ta
gặp những câu như: ‘‘Bụt nhà không thiêng” hay là ‘‘Bụt ở trong nhà, cầu
Thích Ca ngoài đường” thì ý nghĩa sâu xa của những câu ấy được nói
lại,được khẳng định lại rất rõ trong văn chương bác học ở đây là
nói các bài văn, bài thơ hoặc chữ Hán, hoặc chữ Nôm của từng lớp
trên đã học, cũng xuất hiện hình ảnh một đức Phật rất là gần gữi
với con người,đến mức Phật chính là chúng ta không khác, khi lòng
chúng ta gột hết ba độc tham sân si, trở nên trong sáng, vắng lặng, thì
Phật chính là ta, cõi Phật cũng chính là cõi thế gian này không
khác.
Vua Trần Nhân Tông, sau khi đại thắng
quân Nguyên, đã xuất gia,trở thành vị tổ thứ nhất sáng lập ra phái thiền
Trúc Lâm. Trong bài phú Nôm ‘‘Cư Trần Lạc Đạo” ông viết:
“Bụt
ở cuông nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuẩy bổn,nên ta tìm bụt
Đến cốc hay chỉn Bụt là ta”
(các
từ Nôm cổ: cuông nghĩa là trong, cốc là biết. Khuẩy là quên, chỉn là
chính...) Bốn câu thơ Nôm trên nếu dịch lại theo văn hiện nay sẽ là:
Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Vì quên mất gốc,nên ta tìm Bụt
Đến mới hay,chính Bụt là ta.
Theo chỗ hiểu của Trần Nhân Tông,tôi
muốn nói Trần Nhân Tông thiền sư,chứ không phải Trần Nhân Tông như ông vua nhà Trần, theo
cho hiểu của thiền sư Trần Nhân Tông thì Phật không phải là ai khác, mà
chính là ta, là tôi, là mọi người một khi ta, tôi, các anh thức tỉnh,
giác ngộ. Và trong khi lòng đã tỉnh giác, trở nên trong sáng vắng
lặng, thì cae thế gian này là cõi Phật chứ không phải cầu vãng sanh
về cõi Tây Phương Cực Lạc nữa, mà chính Phật Di Đà là ta, cõi Cực
Lạc chũng chính là cõi này. Vì vậy trong bài phú Nôm đã dẫn, Trần
Nhân Tông viết: ‘‘Tịnh độ là lòng trong sạch,chớ còn ngờ hỏi đến
phương tây.Di Đà là tính lặng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc”.
Đôi với Trần Nhân Tông.Tịnh độ,dich
nghĩa là cõi trong sạch,tức là cõi Cực lạc phương Tây cũng không
phải ở đâu xa bên phương tây,mà là ở khắp mọi nơi đối với người có
lòng trong sạch, Đức Phật A Di Đà,
dịch nghĩa là Đức Phật của ánh sáng hào quang vô lượng, cũng không
phải ở đâu trên trời xa thẳm, mà chính là lòng của chúng ta, một khi
đã được làm cho trong sạch, gột bỏ hết ba độc tahm sân si, thì cũng
tỏa hào quang chiếu sáng không khác gì Phật A Di Đà vậy.
Câu ‘‘Phật ở trong nhà, đi tìm Thích
Ca ở ngoài đường”. Nói Phật ở trong nhà, ý muốn nói là Phật ở
trong lòng mình, chứ không ở đâu xa.
Đó chính là ú tứ câu Quốc Sư Viên
Chúng trả lời vua Trần Nhân Tông,khi vua bỏ kinh thành, lên núi Yên Tử,
muốn cầu Phật, tìm Phật:
‘‘Sơn bổn vô Phật,duy tồn hồ tâm, tâm
tịch nhi tri, thị danh chân Phật” (Khóa hư lục)
Dịch:
‘‘trong
núi vốn không có Phật, Phật chỉ có trong lòng, Lòng lặng mà hiểu
biết thì đó mới là ông Phật thật...”
Chính giác ngộ Phật theo nghĩa sâu xa
đó mà sau khi trở lại kinh thành, trở về với ngôi vua, ông tuyên
bố:‘‘Ta xem ngai vua như chiếc giầy rách, bỏ lúc nào cũng được.”Rồi
ông viết cuốn ‘‘khóa Hư Lục” nổi tiếng, đã được dịch ra tiếng việt
nhiều lần.Trong cuốn sách, khi bàn tới quan hệ giữa Phật và con
người, ông viết câu rất khẳng khái: ‘‘ Ngã thân tức Phật thân thị, vô
hữu nhị tướng”.
Nghĩa là: ‘‘Thân của ta tức là thân
Phật,không có hai tướng”.
Đó quả là một quan niệm về Phật có
tính cách mạng.Phật không ở đâu xa vời mà Phật ở chính trong long
mình,Phật chính là ta.Nếu từ vua chí quan và thứ dân,mọi người đều
nghĩ như vậy ,mọi người đều thấy mình là Phật,vạn triệu người như
một,đoàn kết nhất trí,thì mói có chuyện như Trần Hưng Đạo nói :
‘‘quân thần đồng tâm,huynh đệ hòa mục,quốc gia tịnh lực....” nghĩa là
‘‘ Vua tôi cùng một lòng,anh em hòa hiếu với nhau, cả nước chung sức
lại”.
Khi tướng nhà Nguyên là Ô Mã Nhi gặp
đại sứ nhà Trần là Đỗ Khắc Chung dưới chân thành Thăng Long,Ô Mã Nhi
hỏi với dọng thách thức:
‘‘Bọ ngụa mà dám chống xe,liệu ra
sao?”
Diễn biến lịch sử cho thấy con bọ
ngựa Việt Nam đã làm đổ lăn kềnh cỗ xe quân sự của Nguyên Mông đã
từng giầy xéo, dẫm đạp tan tành bao nhui đế quốc và vương quốc hùng
mạnh từ Âu sang Á,thời bấy giờ.
Đúng như câu ca dao dân giã:
‘‘Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã,ai ngờ xe
nghiêng”
IV.Chùa
hòa nhập vào làng thành chùa làng
Đức
Phật hòa nhập vào thân người,thành ra những ông Bụt mang thân
người,như các vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, vua Trần Nhân Tông
thường được gọi là vua Bụt, ở một phương diện khác,chùa Phật cũng
hòa nhập vào làng,xã mà biến thành chùa làng.Chùa làng là của
làng, không phải chùa của sư,tuy rằng vẫn có sư trụ trì chùa.
Ở ngoài Bắc,đi thăng nhiều chùa
cổ,thấy các chùa đều có tên chữ rất hay, thí dụ chùa Pháp Vân ở
Hà bắc, nhưng dân không gọi là chùa Pháp Vân mà gọi là chùa Dâu, tức
lấy tên làng đặt cho chùa. Chứng cớ là câu ca dao:
‘‘Dù
ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về”
Chùa Quảng bá ở ngoại thành Hà Nội
cũng vậy.Tên chữ của chùa là Long ân(ân của rồng,tức là ân của vua)hay
bấy nhiêu, nhưng dân vẫn gọi là chùa Quảng Bá.
Nhiều tên chùa khác, vốn rất trang
trọng,như Potala vốn là tên gọi cung điện của giáo chủ Tây Tạng, trước
khi ông lưu vong sang Ấn Độ, sau khi quân Trung Quốc kéo vào Tây Tạng,
Potala vốn là trú xứ của Bồ Tát
Quan Thế Âm bên Ấn Độ.Vì ngài Đạt Lai Lạt Ma được dân Tây Tạng tin
chính là Bồ Tát Quan Thế Âm tái sinh, cho nên cung điện của Đạt Lai
Lạt Ma ở cũng gọi là điện Potala. Người Trung Quốc dịch âm gọn là
Phổ Đà, như ở thành phố Hồ Chí Minh, có chùa tên là Phổ Đà, Ở Hà
Bắc, tôi có đến thăm chùa Phổ Đà, vốn là một ngôi chùa cổ và đẹp.
Nhưng dân làng, thậm chí mọi người kể cả sách cũng chép là chùa
Bổ, khiến nhà sử học Trần Quốc Vượng cũng thắc mắc không hiểu sao
một ngôi chùa lớn như vậy, xưa và đẹp như vậy lại mang cái tên ky
cục, xấu xí như vậy. Nào ngờ cái tên kỳ cục ấy lại gốc tận bên Ấn
Độ, để chỉ trú xứ của Bồ Tát Quan Thế Âm (chữ phạn là Avalokitesvara)
mội vị Bồ tát của Phật Gáio Đại Thừa mà cả châu Á đều rất sùng
bái, trọng vọng. Chứng cớ là sau chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử, có
chùa Bồ Đà ( sách chép Bảo Đà là sai), thờ tượng Quan Âm tạc ngồi
trên núi,hai bên có hai tượng Kim Đồng(Thiện Tài) và Long Nữ. Tất
nhiên, nếu viết Bổ hnuw ngoài Bắc thì đọc là Bổ, avf nếu viết là
Phổ (Phổ Đà) như trong Nam thì đọc là Phổ. Điều nên chú ý là cả hai
từ Bổ Đà hay Phổ Đà đều là dich âm từ Potala,là trú xứ theo truyền
thuyết của Bồ Tát Quan Thế Âm bên Ấn Độ.
Nhưng phép Phật cũng thua lệ làng.
Chùa đã vào làng, thì sẽ theo lệ làng và được dân gọi bằng cái tên
dân làng ưa thích, Potala hay Phổ Đà, nhưng dân làng Viêt Nam cứ gọi là
Bổ, gọn lỏn như cây Paramita, người Trung Quốc kêu là cây Ba La Mật (đã
bỏ mất chữ đa) thế nhưng dân Viêt Nam cứ gọi là cây mít, thậm chí
còn dám dùng từ mít đặc, theo nghĩa tiêu cực nữa.
Nhà văn hóa dân gian miền Bắc Vũ
Ngọc Khánh có hỏi là Hội Chùa có phóng khoáng không, có chứa đụng
nổi những chuyện như giải phóng tình cảm, khao khát giao duyên hay
không? Và anh Khánh cũng đã trả lời là ‘‘ Cửa Phật không hẹp gì’’,
“các vị kim cương hộ pháp đồ sợ quanh chùa không hề gây cho ai những
gì lo âu sợ hãi.Dân Việt Nam chỉ tháy Phật rất người’’.
Còn tồi thì chỉ muốn anh Khánh xem
lại vở chèo ‘‘Thị Mầu Lên Chùa” thì sẽ thấy cửa Phật quar là không
hẹp, vì của Phật là cửa từ bi, đạo Phật không những chỉ cứu khổ
cho con người mà còn đem lại niềm vui cho con người, kể cả niềm vui
của trai gái giao duyên.
V.kết
luận sách lược hội nhập
Kính thưa hội nghị!
Cho phép tôi dành trọn phần kết luận
để bàn vấn đề mà tôi xin phép tạm gọi là achs lược hội nhập,chứ ở
các phần trên,tôi chỉ nói đến và mô tả kết quả của sự hội
nhập,được minh họa qua từ ngữ,hình ảnh ông Bụt,khái niệm chùa làng.
Đạo Phật không phải chỉ là đức
Phật, và Phật Phấp kết tập trong ba tạng kinh điển. Mà đạo Phật còn
là cả một thiết chế giáo đoàn, với hàng triệu tăng ni Phật tử, có
chức năng thể hiện và truyền bá những chân giá trị của đạo Phật như
là đạo của từ bi và trí tuệ vào trong cuộc sống, vào đời, vào
trong xã hội. Nói cách khác, tang ni Phật tử có sách lược gì để đưa
đạo vào đời, nếu không thì, như một vài tăng ni trẻ nói với tôi, họ
chỉ biết núp bóng hào quang của đức Phật để tồn tại. Nếu không
thì, không phải đạo vào đời ma đời sẽ xâm nhập vào đạo, sẽ biến
đạo Phật vốn là đạo của giải
thoát và giác ngộ trở thành một đạo chìm ngập trong lợi danh và
thế tục. Sẽ có không ít những tăng ni trẻ khong còn khao khát hạnh
phúc của giải thoát trong chùa nữa mà sẽ hoàn tục, đi tìm hạnh
phúc trong sự ràng buộc với vợ đẹp con xinh, với mái ấm gia đình,
một túp lều tranh với hai trái tim vàng như các nhà văn thường viết.
Xây nhiều chùa và chùa lớn,đức
những tượng Phật và Bồ Tát đò sộ chỉ là hình thức của sự hội
nhập. Trong những ngày lễ hội Phật, hàng ngàn vạn người chen chúc
nhau vào các Chùa để lễ Phật và cầu nguyện, cũng chỉ là hình thức
của sự hội nhập.Còn thực chất của sự hội nhập là một cái gì hơn
nữa. Tôi nói hơn nữa, để người nghe đừng hiểu nhầm là tôi bác bỏ
những nghi lễ, vốn cần thiết cho mọi tôn giáo, trong đó có đạo Phật.
Bây giờ tôi xin phép giải thích rõ và cụ thể làm hơn nữa là thế
nào?
Chúng ta hãy lắng nghe lời cầu khẩn
của những người đi lễ chùa.Họ xin gì,cầu gì khi hộ lậy vái Phật
và Bồ Tát,khi hộ cúng tiền làm phước sương của chàu, àm chúng
thường gọi là hòm công đức? Tôi dám cam đoan là 99% những lời cầu xin
đó đều không ra ngoài cái chuyện thường tình như:trúng mánh, vào câu,
thăng quan tiến chức, dâu hiền, vợ đẹp, cầu an, khỏi bệnh v.v...Tôi
không phản đối những lời cầu xin như vậy, trong một cuộc sống xã hội
đầy bất trắc. Những hinh thức cầu nguyện như vậy, môn tôn giáo gọi
là lễ nghi hướng ngoại(Objective worship) nếu chúng ta dùng một từ
ngữ của nhà tôn giáo học người mỹ James Bissett trong cuốn ‘‘ ý thức
tôn giáo” của ông (Religion conscieusness) (xem các trang 145-156, Religion,
culture and society. Chủ Biên Louis Schneider, trường đại học mỹ Iinois).
Còn thế nào là nghi lễ hướng
nội.Thế nào là hướng nội mà cầu xin? nghĩa là hướng vào ông Phật
và Bồ Tát ở ngay trong lòng mình mà cầu nguyện. Phật và Bồ tát đã
có mặt khắp mọi nơi, thì sao lại không có mặt trong lòng chúng ta ?
Hãy giữ lòng mình trong sáng, thuần thiện, không bợn chút ác tâm, mà
trái lại tràn ngập lòng yêu thương đối với mọi người,mọi loài, đem
lại niềm vui cho tất cả. Nhà tôn giáo học gọi đó là nghi lễ hướng
nội, đặt tâm mình ở một tầng số có thể cảm ứng được với tâm Phật
và Bồ Tát....
Hãy hỏi, trong số hàng nghìn vạn
người đến chùa lễ Phật có ai cầu Phật và Bồ Tát ở trong lòng mình
không ....Ít lắm.
Chính cái ít lắm đó là cái phải
làm thêm nữa, trong đời sống tôn giáo hằng ngày của tất cả tăng ni
Phật tử,chứ không phải chỉ xây chùa, đắp tượng, tụng kinh, lễ Phật, mà
phải thường xuyên làm sạch lòng mình, gội rửa ba độc tham sân si, nâng
tâm mình lên ngang tầm tâm Phật và Bồ Tát, chấp nhận những chân giá
trị đạo đức của Phật giáo như là lẽ sống,như là kim chỉ nam cho
cuộc sống hàng ngày của mình.Đó chính là sách lược hội nhập của
đạo Phật vào nền văn hóa Việt Nam,là những chân giá trị của đạo
Phật được bản địa hóa, Viêt Nam hóa. Những chân giá trị đã từng
chói sáng rực rỡ trong những thời kỳ oanh liêt nhất của đời Lý và
đời Trần, hiên nay dù cách xa hàng nghìn năm mà vẫn là niềm tự hào
của đất nước chúng ta, của mỗi người chúng ta.
Đó cũng là điều mong mỏi, điều trăn
trở của tôi, từ bấy lâu nay./.