Từ khi đạo Phật có mặt trên đất nước Việt
Nam thì các ngôi chùa cũng hiện diện khắp nơi để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của
nhân dân. Từ đó, ngôi chùa trở thành chỗ nương tựa tinh thần và biểu tượng đạo
đức của xă hội Việt Nam.
Những ngôi chùa đó có mặt một cách khiêm
tốn và hài hòa trong làng thôn xóm, được sự chăm sóc và trân trọng của dân làng
và trở thành chùa làng. Có những ngôi chùa được xây dựng nguy nga, đẹp đẽ, kiến
trúc độc đáo, biểu tượng cho văn hóa nghệ thuật kiến trúc của dân tộc.
Chùa Việt Nam qua 20 thế kỷ,đă thực hiện
sứ mạng của mình là giáo dục đạo đức làm người,xây dựng nền tạng đạo đức cho xă
hội,bảo tồn và phát huy nên văn hóa dân tộc, nhất là trong những thời kỳ đen
tối nhất của lịch sử.
Hệ thống chùa chiền ở Việt Nam ngày càng
phát triển để đáp ứng nhu cầu văn hóa, tín ngưỡng truyền thống, vừa đáp ứng nhu
cầu giáo dục hiên đại. Tác dụng giáo dục của một ngôi chùa ngày càng được khẳng
định một cách mạnh mẽ hơn.
Bài viết này sẽ đề cập một cách khái quát
về tác dụng vốn có, và trong thời hiện đại, của một ngôi chùa Phật giáo.
A. Tác dụng giáo dục
1. Ngôi chùa là cơ sở giáo dục
Ngôi
chùa,dù bé nhỏ của làng hay nguy nga tráng lệ ở chốn phồn hoa, trực tiếp hay
gián tiếp, là cơ sở có tác dụng giáo dục
Ngày xưa, có những giai doạn lịch sử mà
ngôi chùa là nơi dạy học, các nhà sư là thầy giáo,và ngôi chùa gắn bó với
chương tŕnh giáo dục quốc dân,như một học giả viết: ‘‘Thời Giao Châu đô hộ
phủ,các ḷ huấn dục nhân tài ắt pahir ở tại các ngôi chùa Phật Giáo cổ xưa, vốn
thân cận với nhân dân” (PGVN Nguyễn Đăng Thục, tr. 284). Cái ḷ huấn dục ấy
liên tục tồn tại cho đến các thời kỳ đất nước độc lập hưng thịnh như thời Đinh,Lê
Lư,Trần.Sử chép:‘‘ Bấy giờ, chưa có các kỳ thi Nho học,những người thông minh
và có học chỉ được biết qua các vị Tăng”. (PGVN, Trần Văn Giáp).
Tác dụng giáo dục của bản thân ngôi chùa
c̣n được thấy qua giá trị thẩm mỹ: khung cảnh thiên nhiên,nghệ thuật kiến
trúc.Một ngôi chùa luôn luôn gần gũi với thiên nhiên, hài ḥa với thôn xóm,môi
trường mát mẻ,yên tĩnh phù hợp với điều kiện thăng hoa tâm linh và làm giầu cảm
xúc.... cảnh chùa trong văn học,trong ḷng người dân luôn là h́nh ảnh êm dịu,
ngọt ngào và thanh thoát. ‘‘ Đất vùa, chùa làng, phong cảnh Bụt” câu nói của
miệng của người dân đất Việt. Ảnh hưởng của cảnh chùa đối với tâm tư t́nh cảm
quần chúng thật là sâu sắc và bền chặt.Chùa trở thành biểu tượng của quê
hương,như bài thơ mộc mạc:
‘‘Mai này tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ chùa”
T́nh cảm thiết tha nồng nàn đó, chứng tỏ
ngôi chùa là dấu ấn văn hóa ở trong ḷng người Việt Nam.Ngôi chùa thực sự đă
tác dụng thăng hoa tâm lư,t́nh cảm của con người.
II. Tác dụng giáo dục đạo đức
Sống là hoạt động không ngừng,nhưng phải
hoạt động theo điều kiện để đời sống cá nhân và cộng đồng được ổn định và phát
triển.
Nền luân lư đạo đức của Phật Giáo là những
nguyên tắc hướng dẫn con người hướng thiện,qua giáo lư nhân quả,nhiệp báo,luân
hồi,nền đạo đức nhân bản được thiết lập và đă đi vào đời sống của nhân
dân,quyện vào nếp nghĩ, nếp sinh hoạt và văn hóa của xă hội .
Giáo lư nhân quả xác định:‘‘ở hiền gặp
lành, ở ác gặp dữ”, ‘‘gieo gió gặt băo”, làm con người ư thức tầm quan trọng
những hành vi của ḿnh để tránh hậu quả xấu.Giáo lư nghiệp báo xác định trách
nhiệm đối với hành vi của ḿnh. Cuộc sống đau khổ hay hạnh phúc tùy thuộc vào
ành vi tạo tác của ḿnh, hay nói cách khác, con người là chủ nhân của chính
ḿnh. Nguyễn Du đă nói: ‘‘Đă mang lấy nghiệp vào thân, th́ đừng trách lẫn trời
gần trời xa”. Lư nhân quả, nghiệp báo nói lên tính nhân bằng của cuộc sống,
không ai có thể chạy trốn được tội ác mà ḿnh đă làm. Vì vậy, nó có tác dụng
giáo dục đạo đức xây dụng xă hội cao. Trên cơ sở luật nhân quả và chuyển động
nghiệp báo, con người vẫn tiếp diễn đời sống của ḿnh để ‘‘ trả những nợ đă vay”
hoặc ‘‘ thừa hưởng những gì đã tạo”. Sự tiếp diễn theo ṿòng quay bánh xe gọi
là ṿòng luân hồi. Thuyết luân hồi làm cho con người có niềm tin vào khả năng
chuyển đổi đời sống của ḿnh, như ca dao đă nói:
‘‘
Ai ơi hăy ở cho lành,
Kiếp này chẳng được,để dành kiếp sau.”
Người dân Việt Nam sống hiền ḥa,bao
dung,độ lượng, có đạo lực, làm cho cuộc sống b́ình yên hạnh phúc, đó là nhờ vào
quan niệm sống dựa trên luật nhân quả, nghiệp báo,luân hồi:
‘‘Người
trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau.”
Cụ Hoàng Xuân Hăn nhận định: ‘‘Sau các đời
vua hung hăn họ Đinh, Lê, ta thấy xuất hiện những kử cầm quyền cso độ lượng
khoan hồng, những người giúp việc bớt tham lam phản bạn. Đời Lư có thể là đời
thuần thứ nhất trong nước ta, đó chính là nhờ ảnh hưởng Đạo Phật.”(Hoàng Xuân
Hăn, Lý Thường Kiệt).
Các h́ình tượng và biểu tượng trong các
ngôi chùa luôn nói lên tinh thần giáo lư nhân quả, nghiệp báo, luân hồi, nói
lên giá trị của đời sống thiện. H́ình ảnh 10 cửa ngục trừng phạt kẻ ăn ở độc
ác, những vị Thiện Thần, Ác Thần... đều có ư nghĩa răn đê kẻ khác, khích lệ
người thiện.
Nơi nào có chùa,có sự giáo dục của Phật
Giáo, xóm làng nơi đó bớt đi tranh chấp, hận thù, tội phạm h́nh sự, con người
hiên lương hơn, biết sống cho kẻ khác hơn.
Sự tác động giáo dục thường nhật của một
ngôi chùa tạo nên ư thức về đạo đức, bổn phận, trách nhiệm. Nhờ đó, xây dựng ư
thức đạo đức cho cộng đồng xă hội, nghĩa là xây dựng tiêu chuẩn đạo đức chung
cho xă hội.Năm cảnh giác đạo đức (không giết hại,không trộm cắp,không tà dâm, không
dối trá, không rượu chè say sưa) mà một Phật tử phải tuân thủ là hướng đến mục
tiêu ấy.
Ngôi chùa không những đă đáp ứng nhu cầu
tin ngưỡng truyền thống cho mọi người, xây dựng đạo đức xă hội mà c̣n dáp ưng
nhu cầu tâm linh nữa. Giới trẻ ngày càng mất hướng khi hội nhâp với xă hội văn
minh vật chất và họ sẽ quay về tìm chỗ dựa tinh thần trong ḷòng dân tộc, trong
ấy, chùa là cơ sở thực tế nhất.
III. Tác
dụng giáo dục dân tộc tính:
Từ thưở ban đầu,đạo Phật du nhập vào đất
Việt đă dần dần bản địa hóa trở thành tôn giáo của dân tộc. Kiến trúc ngôi
chùa, đời sống sinh hoạt, quan niệm tín ngưỡng đều tùy thuộc và phù hợp với
tính dân tộc.Điều quan trọng là vị trí tùy thuộc,những biểu hiện đó dần dần
đóng vai trò duy tŕ dân tộc tính, không phải ngẫu nhiên mà có những lời thơ:
‘‘Mái
chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ tông”
(Thích Măn Giác)
‘‘Nếp sống muôn đời của Tổ tông” biểu hiện
qua tín ngưỡng cổ truyền: tin vào Thần Hoàng, Thổ Địa...cao nhất là Ông Trời là
những vị thấy hết những nỗi đau khổ và ước mong của dân tộc và bảo vệ người
dân.Tín ngưỡng dó ḥa quyện với tín ngưỡng đức Phật. Phật và trời đều là đối
tượng cầu nguyện trong cơn ngặt nghèo của đông đảo đồng bào:
‘‘
Nghiêng vai khấn vái Phật Trời,
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân.”
‘‘Nếp sống muôn đời của Tổ tông” c̣ũng
được biểu hiện qua phong tục cúng tế tổ tiên, nhớ ơn tiền nhân, cúng kỵ cha mẹ
hay những người đă khuất. Với chủ
trương coi trọng và đền đáp bốn ân (Tứ Ân
): ân quốc gia, ân thầy tổ, ân cha mẹ và ân chúng sinh, đạo Phật thỏa măn nhu
cầu nhớ ân, báo ân, báo hiếu của người dân Việt. Các lễ hội đầu năm, lễ Vu Lan
đă trở thành lễ hội truyền thống của dân tộc.
Mái chùa là nơi diễn ra các sinh hoạt lễ
hội truyền thống, là môi trường trực tiêp hay gián tiếp nuôi dưỡng nếp sống đạo
đức,văn hóa dân tộc . Chất ‘Dân Tộc” được bảo quản, được phát huy dưới mái chùa
cong vút hiền ḥoà.
IV. Tác
dụng giáo dục sự tỉnh thức
Một thi sĩ đă viết:
‘‘
Biển khổ mênh mông sóng ngút trời,
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi.
Thuyền ai ngược gió,ai xuôi gió,
Ngoảnh lại cùng trong bể thảm thôi.”
Mới nghe th́ bi thảm quá, nhưng đó là sự
thực. Nhận chân sự khổ là nhận thức cơ bản về sự thực của cuộc sống.Nhận thức
như vậy là do kinh nghiệm‘‘ khốn nhi trí”. Nhưng cái khốn khổ ấy, theo Phật
Giáo, vốn có cội nguồn ở trong tâm hồn của mỗi người.‘‘ Cái bể khổ trầm luân ấy
chính là tham sân si,tật đố, ngă mạn của chúng sinh, chứ không phải ở đâu
xa.”(Vô ngă là Niết Bàn, Thích Thuận Siêu,tr.24).
Tỉnh thức để thấy rơ cội nguồn của đau
khổ,vơi bớt đau khổ, t́ìm thấy lẽ sống dích thực.Khi sự tỉnh thức được tác động
lên tâm hồn đang mê muội trong chốn trần ai, con người trở nên hoài cảm về cuộc
đời, nhân t́ình thế thái, giật ḿnh chiêm nghiệm thân phận con người trong giắc
mộng ba sinh, như Chu Mạnh Trinh đối với chùa Hương:
‘‘Thỏ
thẻ rừng mai,chim cúng trái,
Lững lờ khe yến,cá nghe kinh.
Thoảng bên tai tiếng chày ḱnh,
Khách tang hải giật ḿnh trong giắc
mộng...”
(Chu Mạnh Trinh)
Nhờ khung cảnh thoát tục của chùa chiền, nhờ
có các biểu tượng thiêng liêng, nhờ tư tưởng sâu sắc của Phật Giáo, con người
có điều kiện lấy lại sự an b́nh cho tâm hồn. Cửa thiền rơ ràng có giá trị cao
về mặt đánh thức tâm hồn mê muội của nhân sinh.đáp ứng như cầu hướng về chân lư
và hạnh phúc vĩnh hằng. Học giả Nguyễn Đăng Thục nhận định ‘‘Đạo Phật Việt Nam
thời xưa,nó đáp ứng nhu cầu thâm sâu của con người trong cuộc sống,đó là tín
ngưỡng tin vào giá trị vĩnh cửu trong đời sống tâm linh vượt sống chết.” (PGVN
Nguyễn Đăng Thục).
Chúng tôi cho rằng đây là một trong những
mục tiêu có giá trị đích thực của con đường giáo dục Phật Giáo mà ngôi chàu là
một điều kiện xúc tác.
B. Vấn đề
tác dụng trong giáo dục hiện tại:
I. Xă
hội hiện đại:
Că hội hiện đại khác xa xă hội ngày xưa. Ngày nay xă hội phát triển với
tốc độ chóng mặt. Khoa học kỹ thuật là động lực chính cho sự phát triển đó.
Nền tảng tư tưởng,văn hóa đạo đức, luân lư truyền thống lung lay tận gốc
rễ.khó giữ được vai tṛ chủ đạo trong nếp sống mới. Từ đó,những vấn đề bức xúc
mới nảy sinh, tạo mâu thuẫn giữa xă hội và trong gia đ́nh, dẫn đến khủng khoảng
niềm tin, đạo đức, tâm linh…
Đối tượng của tri thức thay đổi nhanh chóng và toàn diện,lượng thông tin
hầu như quá tải với sự tiếp nhận của đầu óc con người.Một đứa trẻ nhận được
thông tin gấp hàng trăm lần so với lượng thông tin mà một người trưởng thành
nhận được vào thế kỷ trước.V́ vậy,con người hiện đại,đối tượng giáo dục, đă
thay đổi nhiều, đa dạng và phức tạp.
II. Chùa chiền hiện nay:
Những tác dụng giáo dục vốn có như đă tŕnh bầy ở trên th́ đến nay ngôi
chùa vẫn c̣n kế thừa, vẫn có cơ sở để phát triển. Tuy nhiên, trước tốc độ phát
triển như vũ băo của khoa học kỹ thuật, đời sống xă hội, con người thay đổi gần
như toàn diện làm cho giá trị giáo dục của ngôi chùa,vốn không thay đổi mấy, trở
nên lạc hậu so với tình hình.
Sự phát triển xă hội, chủ yếu là phát triển vật chất,nhu cầu hưởng thụ
dễ dàng thỏa măn, xu hướng kinh tế hóa lan vào lĩnh vực tinh thần, chùa chiền.
Một mặt những hoạt động chủ yếu của ngôi chùa hiện nay chỉ c̣n đáp ứng
những nhu cầu tín ngưỡng b́nh dân: cầu an, cầu siêu, cúng đất, mở của mả ....,
để tăng thu thập, hầu đáp ứng được nhu cầu vật chất ngày nay.
Mặt khác,phần lớn những vị trụ tŕ khả năng hạn chế, không được đào tạo
hay đào tạo chưa đạt yêu cầu, đă không đủ năng lực điều hành hoạt động của một
ngôi chùa, không phát huy hết khả năng của một ngôi chùa để đáp ứng cho nhu cầu
mới thời hiện đại.
Về mặt nổi, chùa chiền hiện nay đang quá tải về lượng quần chúng tín đồ.
Về mặt chất, tức là nội dung, th́ấy cần phải xét lại. Người tri thức ngại đến
chùa vì bị lạc lõng giữa biển người đầy nhang khói. Giới trẻ th́ì ít có cơ hội
tiếp cận với chùa chiền, hay với nền đạo đức Phật Giáo, nếu có dịp tiếp cận, lại
hay nghi về giá trị đạo đức tín ngưỡng. Ít có người có khả năng thích hợp để
dẫn dắt giới trẻ, ít có tài liệu mới
phù hợp cho căn cơ và kiến thức thời
đại. Người ta đi chùa như là một nhu cầu quen thuộc hay thỏa măn ước vọng thầm
kín nào đó.
Với tinh thần như vậy, trong tương lai ngôi chùa khó mà giữ được vai tṛ
như trong quá khứ đă có.
III. Những điều kiện cần thiết trong xă
hội hiện đại:
1. Vai trò của tổ chức Giáo hội:
Để khắc phục những nhược điểm nói trên, để
khai thông t́ình trạng bế tắc đang xảy
ra, trước hết những người có trách nhiệm phải nhận ra chỗ yếu kém của ngôi
chùa, thiết tha t́ìm một hướng đi mới. Phải mạnh dạn xét lại đường lối lănh đạo
của Giáo Hội Phật Giáo. Sẽ không có sự thay đổi nào lớn nếu không có sự lănh
đạo và tác động cơ chế vĩ mô. Từ đó, các ban, ngành chuyên môn của Giáo Hội như
Giáo Dục, Hoằng Pháp, Viện Nghiên Cứu Phật Học...đề ra kế hoạch đồng bộ: tiêu
chuẩn hóa cán bộ Giáo hội, giáo phẩm lănh đạo chùa chiền.Tổ chức đào tạo theo
hướng mới, tạo điều kiện tiếp cận tài liệu và tri thức về sự phát triển của xă
hội hiện đại, sự thành tựu của khoa học kỹ thuật mũi nhọn, tâm lư học thanh
thiếu niên, các lĩnh vực trọng yếu về sự tồn tại của nhân loại , xu hướng quốc
tế hóa mọi lĩnh vực hiện tại và tương lai.
2. Vai trrò của trụ trì:
Vị trụ trrì lănh đạo của một ngôi chùa phải được trang bị vững chăi về
Phật học và thế học, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tu học của mọi giới. Ranh giới
giữa chùa và xă hội bên ngoài dần dần được xóa bỏ. Vị trụ tŕ không c̣n là thầy
của bổn đạo Phật tử nữa, mà c̣n tiếp xúc và ‘‘làm thầy” đối với mọi thành phần
khác trong xă hội.Họ không chỉ giáo dục người Việt mà còn ‘‘tiếp độ” người nước
ngoài. V̀ vậy, ngoài phẩm chất đạo hạnh là điều tối cần thiết, tŕnh độ nhận
thức về văn hóa xă hội, khả năng ngoại ngữ cũng phải thông suốt .
Mặt khác, vị trụ trì còn cần phải tu dưỡng để nâng cao tŕnh độ đạo đức
tâm linh, giáo dục quần chúng qua hành vi của bản thân có tác dụng rất lớn, là
một lĩnh vực hết sức quan trọng mà thuật ngữ gọi là ‘‘THÂN GIÁO”. Quần chúng sẽ
học được rất nhiều ở nhân cách của một vị sư.
3. Những mô h́ình hoạt động:
a. Xây dựng chùa chiền:
khi xây dựng hay sửa chữa chùa, những giá trị thẩm mỹ ngôi chùa cần phải
chú trọng. Càng ngày, tŕnh độ cảm thụ thẩm mỹ của con người càng cao. Tránh
kiến trúc loè loẹt, chắp vá. Những yếu tố trang nghiêm,thanh thoát, hài hoà của
nghệ thuật kiến trúc cổ cần phải kế thừa, kết hợp với nghệ thuật mới có sáng
tạo để đạt giá trị thẩm mỹ.
b)Tổ chức tu học:
Thường xuyên tổ chức tu học cho Phật tử qua các h́ình thức: tu Bát Quan
Trai, khóa học Giáo Lí, tổ chức lễ hội và nghi lễ, sinh hoạt thanh thiếu niên, tổ
chức các ban hội tương trợ, để cho ngôi chùa luôn có sinh khí.
Tu Bát Quan Trai là tạo điều kiện cho quần chúng Phật tử tu tập, đào luyện
tâm tư, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm tu tập. Như vậy, chương trình phải
thiết lập trên cơ sở Giới, Định, Tuệ (nguyên tắc đạo đức, thiền định và trí
tuệ). Mở rộng và đa dạng hóa mô h́ình Bát Quan Trai để cho giới trẻ có điều
kiện tham dự.
Các khóa giảng giáo Lí nên chú trọng đến thực tiễn, mang tính khoa học
và có tác dụng giải thoát. Như vậy nguồn mạch sinh động của giáo lí mới tưới
mát được lòng người.Người Phật tử phải là người vui tươi và hạnh phúc.
Tổ chức lễ hội và nghi lễ là cần thiết, những phong tục tập quán, tín
ngưỡng tốt đẹp cần duy trì và phát triển. Chú trọng chuyển hóa nội dung, đừng
đi ngược lai vói tư tưởng nhân quả, nghiệp báo, luân hồi v.v... để các sinh
hoạt ấy luôn mang ư nghĩa tốt đẹp và tác dụng giáo dục cao.
Về nghi lễ,tùy theo ảnh hưởng văn hóa, lễ nhạc của mỗi miền mà chỉ cần
tổ chức nghi lễ trang nghiêm đem lại cho người Phật tử niềm thành kính, nhất
tâm, không nên tổ chức quá rườm rà với những bài diễn văn thật dài và những
phát biểu thật đông mà không có giá trị nội dung.
Sinh hoạt thanh thiếu niên phải được quan tâm, vì thanh thiếu niên là
tương lai của xă hội, là các đối tượng dễ bị tác động bởi môi trường xấu. Tổ
chức cho thanh thiếu niên có điều kiện tiếp cận với môi trường đạo đức dưới sự
dẫn dắt và thương yêu của vị trụ trì, với sự hiểu biết về tâm lí, về xă hội, vị
thầy trụ trì là người cha tinh thần cho tuổi trẻ nương tựa. Gia đ́nh Phật tử là
một mô h́ình tốt, nhưng chưa đủ. Cần đa dạng hóa tổ chức giáo dục, sinh hoạt
thanh thiếu niên mới đáp ứng được căn cơ tuổi trẻ hiện đại.
Tổ chức các ban chuyên môn và các hội tương trợ để tạo cơ hội cho sự
phát triển tinh thần thân hữu,sự đoàn kết, thương yêu nhau dưới một mái chùa.Tổ
chức thăm viếng giúp đỡ nhau lúc đau ốm,hoạn nạn.An ủi nhau lúc khốn khó, chia
xẻ và cầu nguyện cho nhau khi qua đời hay khi gia đ́ình có tang chế.
C. Kết luận
Ngôi chùa, vị trụ trŕ và phương thức hoạt động là ba yếu tố liên hệ hữu
cơ, để Phát huy tác dụng giáo dục Phật Giáo có hiệu quả, trong quá khứ cũng như
thời hiện đại.
Tác dụng giáo dục của chùa chiền đối với con người và xă hội Việt Nam
,trong qua khứ rất lớn,cần phải có những công tŕnh nghiên cứu nghiêm túc,mới
có thể thẩm định được giá trị của nó.Điều mà chúng ta thấy ngay là: chùa Việt
Nam đối với dân Việt quá gần gữi thân thiết, là một biểu tượng không thể thiếu
trong các sinh hoạt tinh thần của người Việt.
Tuy nhiên,như đă tŕnh bày, với sự phát triển cao độ của khoa học và kỹ
thuật, xă hội thay đổi gần như toàn diện, đă tạo nên sự khủng hoảng niềm tin về
giá trị tư tưởng,văn hóa,đạo đức,truyền thống. Do đó, hoạt động và nội dung
giáo dục của Phật giáo phải có tính hiên thực, khoa học và đáp ứng được những
nhu cầu kiến thức văn bản mà cụ thể, trên cả hai mặt chuyên môn cũng như đào
tạo phẩm hạnh cảu con người.
Chúng ta cần phải can đảm và sáng suôt thấy rơ vấn đề,quan tâm nghiên
cứu nhiều hơn nữa, để bỏ sung các quan điểm, phương thức hoạt đọng của một ngôi
chùa,phù hợp với quy luật pháp triển xă hội hiện đại. Làm thế nào để ngôi chùa
tiếp tục phát huy tác dụng giáo dụng của nó trong thời đại mới, góp phần xây
dựng nền đạo đức mới để phục vụ cho mục tiêu an b́ình và hạnh phúc cho xă hội
nhân sinh ở hiện tại cũng như trong tương lai.